Sau
cuộc Tổng tuyển cử năm 1946, đoàn đại biểu miền Nam của Quốc hội khóa I có ba
đại biểu nữ. Một trong số đó là bà Ngô Thị Huệ (thường gọi là cô Bảy Huệ), phu
nhân của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Từ miền Nam ra Hà Nội dự kỳ họp Quốc
hội đầu tiên, bà đã phải vượt qua một hành trình gian nan mất đến 6 tháng
trời.
Trong
cuộc Tổng tuyển cử trước nhất bầu ra Quốc hội khóa I năm 1946, được sự tin cẩn
và ủng hộ của quần chúng. #, Bà Ngô Thị Huệ khi đó đã trở thành một trong ba đại
biểu nữ thuộc đoàn đại biểu miền Nam của Quốc hội khóa I. Với bà đây là niềm
vinh diệu lớn lao, trong Hồi ức “Tiếng sóng bủa ghềnh” của mình, bà Bảy Huệ
không quên không khí đi vận động, tuyên truyền bầu cử ngày ấy.
Bà
Ngô Thị Huệ kể: “Giữa lúc hầu hết các tỉnh Nam Bộ tuần tự bị giặc Pháp chiếm
đóng và sắp tràn đến Bạc Liêu, Tỉnh ủy Bạc Liêu nhận được chủ trương tổ chức bầu
Quốc hội vào ngày 6/1/1946. Dẫu gặp vô vàn khó khăn trong việc chuẩn bị và tiến
hành bầu cử, Tỉnh ủy và chính quyền trang nghiêm chấp hành chủ trương của Chính
phủ Trung ương, cử cán bộ về từng địa phương tuyên truyền rộng rãi trong dân
chúng, xem như đó là một cuộc vận động nâng cao dân trí, tổ chức thực hành sự
nghiệp đại kết đoàn dân tộc. Ủy ban trận mạc Việt Minh giới thiệu đại diện đủ
các giới, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, nhân sĩ trí thực dự ứng cử”.
Ở
tỉnh Bạc Liêu có khoảng 6-7 người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa I và ba người có
uy tín nhất được dân chúng bầu làm đại biểu Quốc hội của tỉnh gồm kiền Nguyễn
Văn Đính, ông Cao Triều Phát (đại diện tôn giáo) và bà Ngô Thị Huệ (một cán bộ
cách mệnh).
Những
nữ đại biểu của Quốc hội khóa 1 năm 1946
&Ldquo;Trong
những ngày đi tuyên truyền vận động cho tổng tuyển cử, tận mắt thấy tai nghe nỗi
khổ của đồng bào, xúc động nhất là lần tôi xuống tận vùng đốt than Năm Căn, được
tiếp xúc hàng ngàn thợ lò trong bộ áo xống bằng bố tời, mặt mày đen trùi trũi,
chỉ còn nhìn thấy đôi mắt, chú tâm lắng nghe lần trước tiên trong đời về cuộc
bầu cử một Quốc hội để lập chính quyền kháng chiến giành độc lập và mưu cầu hạnh
phúc cho dân. Tôi cảm ơn đồng bào cử tri biết bao khi nghe bà con bàn tán chọn
bầu đại biểu,” bà Ngô Thị Huệ nhớ lại.
&Ldquo;Tâm
trí tôi lại khắc ghi thêm hình ảnh của những bà mẹ, người chị buôn thúng bán
bưng, với những dòng chữ quệch quạc đã viết tên Huệ trên những tấm lá chuối,
giấy gói hàng chuyền tay cho nhau đọc, vận động bỏ phiếu cho tôi. Làm sao tôi có
thể quên được”.
Xúc
động và vinh hạnh là vậy, nhưng người đại biểu ấy chưa thể mường tưởng được con
đường đi họp Quốc hội lại khó khăn, gieo neo đầy thử thách đến vậy.
Phải
mất hơn sáu tháng ròng rã theo đường biển qua Thái Lan, Trung Quốc, đoàn đại
biểu miền Nam mới ra được tới Hà Nội. Bởi thế, được triệu tập cho kỳ họp trước
hết, nhưng khi đoàn ra tới Hà Nội thì Quốc hội khóa I đã chuẩn bị bước vào kỳ
họp thứ hai.
Bà
Ngô Thị Huệ kể lại, đến tháng 3/1946, chúng tôi được thông tin ra thủ đô Hà Nội
dự phiên họp Quốc hội trước tiên. Lúc này quân và dân tỉnh nhà đã bước vào cuộc
kháng chiến gian khổ, khốc liệt. Chẳng thể đi đường công khai mà phải mượn con
đường biển, điểm tụ họp để xuất hành là khu vực Vàm Ông Trang (Mũi Cà Mau).
Chúng tôi được tổ chức đưa đi trên một chiếc thuyền đánh cá để qua Thái Lan an
toàn, nơi có đông kiều bào yêu nước ra đón.
Tuy
nhiên, dự định ban sơ của đoàn là từ Thái Lan đi qua Lào để về Hà Nội đã không
thực hiện được vì quân Pháp đã đánh sang Lào. Tình hình không ổn định khiến đoàn
bị kẹt ở Thái Lan ngót sáu tháng. Ai cũng rất nóng lòng để được về thủ đô Hà Nội
càng sớm càng tốt. Vì thế, đoàn phải chia ra nhiều nhóm nhỏ đi trên đường
biển.
&Ldquo;Nhờ
sự viện trợ của tổ chức Việt kiều yêu nước, tôi đóng giả người Hoa để từ Bangkok
(Thái Lan) qua đảo Hải Nam rồi lại đi tiếp qua Bắc Hải về Đông Hưng (Trung
Quốc), nơi giáp ranh với Móng Cái (Quảng Ninh). Khi đặt chân lên mảnh đất thân
thương, ngước nhìn lá cờ đỏ sao vàng bay phơi phới, nước mắt vui mừng cứ trào
ra,” bà Ngô Thị Huệ bổi hổi nhớ lại.
Đến
tháng 10/1946, các đại biểu miền Nam được triệu tập ra họp kỳ họp thứ nhất Quốc
hội khóa I mới tới Hà Nội và bước vào kỳ họp thứ hai. Những gian truân khó nhọc
trên hành trình thực hiện trách nhiệm của một Đại biểu dân cử lần trước hết
không ai biết trước. Dù kéo dài cả nửa năm trời trên hành trình ấy, phuong an bao ve nhưng tấm lòng kiên định, nhiệt huyết của nữ
đại biểu Ngô Thị Huệ cùng các đại biểu khác từ miền Nam vẫn dâng trào sục sôi,
góp phần vào sự thành công của Quốc hội khóa I.
Ý
chí kiên tâm của những đại biểu năm xưa đã làm nên thành công của Quốc hội khóa
I, một kỳ Quốc hội đi vào lịch sử với vai trò và ý nghĩa đặc biệt, là Quốc hội
trước hết của nước Việt Nam độc lập, là mốc đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về
thể chế dân chủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ.
Bà
Ngô Thị Huệ hay Bảy Huệ (sinh năm 1918) là một trong 10 đại biểu nữ của Quốc hội
Việt Nam khóa đầu tiên, nguyên Phó bí thơ tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Long, Vụ trưởng Vụ
tổ chức cán bộ thuộc Ban Tổ chức trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, Phó chủ toạ
Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo thị thành Hồ Chí Minh. Bà là phu nhân của Tổng bí
thơ Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh tức Mười Cúc.
Tháng
1/1946, trong cuộc tổng tuyển cử trước nhất của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa,
bà Ngô Thị Huệ đã trở thành đại biểu Quốc hội, một trong 3 nữ đại biểu Quốc hội
đại diện miền Nam Việt Nam trong số 10 nữ đại biểu Quốc hội khóa I của nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa.
Bà
Ngô Thị Huệ đã xuất bản một cuốn hồi tưởng có tên Tiếng sóng bủa ghềnh. Hiện bà
sống với gia đình người con gái thứ hai tại thành thị Hồ Chí Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét